Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2012

GIỚI THIỆU VỀ QUÊ HƯƠNG DIỄN NGỌC-DIỄN CHÂU-NGHỆ AN

1.  Diễn Châu:
Là người Việt Nam dù sinh sống bất cứ địa bàn nào cũng mang trong mình đặc điểm chung của dân tộc, bởi lẽ họ cùng một cội nguồn, một cộng đồng dân tộc vốn sớm ổn định về ngôn ngữ, sinh hoạt, kinh tế và tâm lý… Tuy nhiên, trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống với những đặc điểm riêng biệt về điều kiện tự nhiên cũng như xã hội, người dân Diễn Châu qua thời gian và không gian xê dịch đã có một sự chuyển đổi về tính cách, nếp nghĩ, tình cảm và phong tục tập quán.

Chợ Phủ Diễn
Truyền thống của nhân dân Diễn Châu về bn chất truyền thống của người Việt biểu hiện trong hoàn cảnh cụ thể. Các truyền thống được truyền lại cho các thế hệ tiếp nối, góp phần cùng cả nước làm nên những bản anh hùng ca hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Không chỉ có cảnh đẹp của núi sông, biển cả, giàu của cải thiên nhiên mà Diễn Châu còn được biết đến là một trong những vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử - văn hoá. Nơi đây là ni hội tụ, giao lưu của hai nền văn hoá Bắc - Nam. Nhiều di tích thời tiền sử đã được phát hiện, chứng tỏ đây là vùng đất cổ có người cư trú từ lâu đời. Tại di chỉ Rú Ta (Diễn Thọ) thuộc nền văn hoá Bàu Tró - nền văn hoá hậu kỳ đồ đá mới ở Nghệ Tĩnh đã phát hiện được nhiều hiện vật như rìu đá hình chữ nhật, rìu đá có vai, đồ gốm tô thổ hoàng, có đồ án trang trí hoa văn chữ S nối đuôi nhau.
ở di chỉ lèn Hai Vai (Diễn Minh) tìm được một số hiện vật quý: sọ người cổ, bình gốm còn nguyên vẹn và rìu đá được mài nhẵn cả 2 mặt. Hoa văn trang trí dọc trên các bình gốm Hai Vai rất độc đáo, ít khi gặp trên đồ gốm nguyên thuỷ ở nước ta.

Lèn Hai Vai - Diễn Bình
Di chỉ Đồng Mổm (Diễn Thọ) là di chỉ duy nhất tìm được nhiều đồ sắt trong các di chỉ thuộc nền văn hoá Đông Sn ở Nghệ Tĩnh. Phương pháp luyện sắt thời đó là phưng pháp hoàn nguyên trực tiếp. Ngoài các hiện vật bằng đá, sắt, ở đây còn phát hiện được một số mộ chôn đơn, chôn đôi, chôn trong 2 vò gốm úp nhau. Qua việc chôn cất người chết có thể thấy một chế độ xã hội giàu nghèo đang phát triển nhưng ở mức độ phân hoá chưa cao.
Di chỉ Rú Ta, lèn Hai Vai, Đồng Mổm đã góp phần khẳng định Diễn Châu là một bộ phận khăng khít trong đại gia đình các dân tộc là con cháu các vua Hùng và góp phần làm rạng rỡ thêm về nền văn hoá Đông Sơn nổi tiếng.
Huyện Diễn Châu nổi tiếng là vùng đất có truyền thống hiếu học, chuộng văn chương. Truyền thống hiếu học, trọng đạo lý làm người không chỉ thể hiện trong ý thức tư tưởng mà còn biểu lộ trong hành động thực tế. Hầu hết các thôn xã đều có ruộng học điền, có văn miếu, hội tư văn, tư võ, hội đồng môn. Nhiều tên làng, tên xã đã nói lên truyền thống đó của quê hương như Văn Hiến, Văn Vật, Văn Tập, Bút Điền, Bút Trận, Tạm Khôi, Thư Phủ, Nho Lâm,…
Trong hoàn cảnh khó khăn về mọi mặt, tinh thần khổ học, cần cù, hiếu học sớm được định hình, trở thành một trong những truyền thống tốt đẹp của quê hương. Dương Văn An trong "Ô Châu cận lục", Phan Huy Chú trong "Lục triều hiến chương loại chí" đều nhận xét "Người Hoan, Diễn thuần mà chăm học"

Cụ Cao Xuân Dục
Từ khoa thi đầu tiên năm 1232 đến khoa thi cuối cùng năm 1919, Diễn châu có 27 vị đại khoa (3 Trạng nguyên, 3 Thám hoa, 4 Hoàng giáp, 17 Tiến sĩ), 72 Phó bảng và 82 Cử nhân (chưa kể các Cống sỹ đời Lý - Trần). Về mặt khoa sử, Diễn Châu đứng thứ hai sau huyện La Sơn. Khoa thi năm Nhâm Thìn, hiệu Quang Hưng (1592) chỉ lấy 3 người, riêng Diễn Châu chiếm 2 vị, đó là Ngô Trí Tri - 56 tuổi, đậu Tam giáp đồng Tiến sĩ đồng xuất thân và con của ông là Ngô Trí Hoà - 28 tuổi Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. Xã Lý Trai (Diễn Kỷ), Hoa Lâm (Diễn Thọ) là những xã nổi tiếng trong tỉnh có nhiều người đã đỗ đạt cao. Nhiều nhà khoa bảng ở Diễn Châu có lòng yêu nước nồng nàn, tuy đõ cao song họ không ra làm quan mà hướng theo nhà vua mà cứu nước, hay trở về quê làm nghề dạy học, bốc thuốc chữa bệnh, cứu người. Trong hàng ngũ các nhà khoa bảng có rất nhiều người xuất chúng, ví như Bạch Liêu (Diễn Minh) đỗ trại Trạng nguyên năm 1266 được coi là ông tổ khởi sự "khai khoa" của xứ Nghệ. Tuy đỗ cao nhưng Bạch Liêu không ra làm quan mà chỉ là môn khách cho thượng tướng Trần Quang Khải trấn thủ Nghệ An, góp phần xây dựng quê hương. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn nổi tiếng về sự thông minh, được người đời mệnh danh "tủ sách bụng". Ông từng viết "Ngọc đường thi tập", "Ngọc đường văn tập" chiêu mộ quân sỹ dấy cờ nổi dậy đánh Pháp hướng theo chiếu Cần Vương cứu nước. Cao Xuân Dục mặc dù chỉ đậu Cử nhân nhưng lại rất uyên bác, xứng đáng là Tổng đài quốc sử quán triều Nguyễn, ông đã biên tập bộ "Đại Nam nhất thống chí", là soạn gi của 16 tác phẩm bao gồm các lĩnh vực thơ, văn, lịch sử, triết học, địa lý, pháp lý.
Hoàng Danh Sưởng còn gọi là (Đồ Đượu) đậu Hiến sinh nhưng không ra làm quan mà ở lại quê nhà vui thú điền viên và quyết tâm nghiên cứu y học với hoài bão chữa bệnh cứu người. Trên 30 năm vừa học, vừa là, tham kho kinh điển, thu thập kinh nghiệm dân gia, ông đã biên soạn ra bộ "Địa sinh lâm đắc" gồm 4 tập, hiện còn giá trị đến ngày nay.

Dân quân xã Diễn Hùng
Về sinh hoạt tinh thần, nhân dân Diễn Châu cũng có những sắc thái riêng biệt, độc đáo. Thờ phụng gia tiên và tinh thần tông tộc được coi là cái gốc của đạo lý làm người. ở các làng xã trong huyện đều có đền thờ thần hoàng, có chùa thờ Phật, có văn chỉ để lễ tiên thánh hậu hiền. Thần hoàng làng không những là người đại diện mà còn là người bảo trợ cho cộng đồng làng xóm. Ngày lễ thần là một trong những nghi lễ quan trọng nhất, lớn nhất cộng đồng của năm. Tất cả dân làng đều quan tâm đến ngày hội, nhộn nhịp chuẩn bị với tất cả sự hứng thú và lòng thành kính. Ngày hội ấy bao giờ cũng được tổ chức một cách thường xuyên và đều đặn. Những năm hoa cỏ, mùa màng phong đăng tươi tốt thì ngày hội càng lớn càng linh đình. Ngày lễ tế thần thể hiện một cách tập trung và toàn diện nhất, mọi nề nếp sinh hoạt của cộng đồng có một ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục ý thức tâm lý cộng đồng cho các thế hệ trẻ về truyền thống của ông cha.
Ngoài lễ tế thần, vào những năm nhất định, các làng xã đều tổ chức lễ mừng thọ. Đại vị của các vị lão niên được mọi người kính nể. Quan điểm "Triều đình trọng tước, làng nước trọng xí" thể hiện sự khác biệt giữa phép nước và lệ làng, một khong cách giữa quan điểm tổ chức và thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến bề trên và ý thức dân chủ của làn xã ở cơ sở. Tập tục này còn được duy trì đến ngày nay nhưng hình thức có phần đã khác xưa.
Con người Diễn Châu rất yêu thích ca hát. Nhiều thôn xã trước đây đều có phường hát như hát hội ở làng Bùng (Diễn Ngọc), Thừa Sủng (Diễn Xuân), hát chèo ở Lý Nhân (Diễn Ngọc), Thanh Bích (Diễn Bích), hát hò Đại Thánh ở Đông Câu, Phúc Thịnh (Diễn Hải). Vào ngày hội mùa xuân, các nơi đều tổ chức ca hát, lôi cuốn được hàng trăm người tham dự. Nhân dân Diễn Châu rất hâm mộ những nhạc phẩm, kịch bản nói về anh hùng dân tộc, các gương trọng đạo lý và tình nghĩa thuỷ chung.

Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn về thăm Diễn Châu
Nét đặc sắc trong sinh hoạt văn nghệ ở Diễn Châu là hát ví, hát dặm và kể vè. Hát ví đậm đà chất trữ tình, gắn liền với lao động sản xuất, với các ngành nghề làm ăn của địa phương. ở Diễn Châu hầu như nghề gì cũng có hát ví: Người quay tơ dệt vi ở Đông Phái, Phượng Lịch (Diễn Hoa) có ví phường vi; người chắp gai đan lưới ở Hữu Bằng, Phú Lộc, Lý Nhân (Diễn Ngọc) có ví phường chắp gai; ngừi đan lát ở Hoàng La (Diễn Hoàng), Phú Hậu (Diễn Tân) có ví phường đan; người đi săn vùng Rấm To (Diễn Lâm) có ví phường đan; người hái củi Nho Lâm (Diễn Thọ) có ví phường củi (còn gọi là hát reo), trẻ mục đồng có ví chăn trâu; những ngày mùa màng có ví phường cà, phường cấy, nhổ mạ, phường gặt, đó là chưa kể đến những đêm hát huê tình (hát ghẹo) của nam thanh nữ tú vào tiết tháng 7, tháng 8, lúc mùa màng rỗi rãi.
Hát dặm không thịnh thành ở Diễn Châu nhưng kể chuyện thì hầu như nơi nào cũng có. Vè không những được quần chúng sử dụng như một vũ khí sắc bén để tố cáo, phản kháng đối với giai cấp thống trị mà còn mang tính chất thời sự phản ánh và bình luận kịp thời với tinh thần phê phán những sự việc xy ra ở địa phương. Không có một quyền lực nào có thể cản trở được quần chúng nhân dân sáng tác vè. Tác gi của các bài vè có thể là cá nhân hay một tập thể, một nhóm người, sáng tác xong thì lập tức nhanh chóng được phổ biến rộng rãi trong thôn xóm. Có nhiều bài vè đề cập đến những vấn đề rộng lớn, đã vượt thời gian và không gian tồn tại như một cứ liệu lịch sử của thời đại như vè Tú Tấn, Tú Mai, vè Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhã, vè đi phu ở Cửa Rào,…
+ Ngoài các làn điệu dân ca còn phải kể để kho tàng văn học dân gian gồm đủ loại ca dao, tục ngũ, chuyển cười, chuyện trạng, chuyện cổ tích và nhiều giai thoại văn học. Ca dao, tục ngữ ở Diễn Châu đều tập trung việc đúc kết  từ kinh nghiệm sản xuất, cách ứng xử trong quan hệ xã hội và đặc điểm sinh hoạt của địa phưng. Các chuyện thần thoại, cổ tích phần lớn là các chuyện lịch sử thường tập trung biểu dưng các gương sáng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước nên có tác dụng trong việc hình thành các truyền thống của quê hương.
Chế ngự thiên nhiên, phát triển sản xuất, xây dựng quê hương là một trong những truyền thống quý báu của nhân dân huyện nhà. Diễn châu là một trong những huyện có tài nguyên phong phú, đa dạng nhưng cũng là nơi thiên tai đạt ra cho con người nhiều tai ương, chướng ngại. Nắng, gió, mưa bão, lũ lụt, hạn hán , sâu bệnh  là những nhân tố thường xuyên uy hiếp đời sống con người ở đây. tin vào khả năng của mình, các thế hệ ông cha cũng chung lưng đấu cật với nhau trong cuộc sống đấu tranh lâu dài, gay go và phức tạp. Bằng  sức lao động cần cù, bằng sự thông minh trí sáng tạo  tuyệt vời, tổ tiên ta đã tận dụng những điều kiện thuận lợi sẵn có trong tự nhiên, biết khắc phục trở ngại hiểm nghèo, từng bước xây dựng quê hưng ngày một giàu đẹp. Buổi đầu lập nước, công cụ rất thô sơ, ông cha ta chủ yếu dựa vào sức lao động của công xã, đẩy mạnh công cuộc khai phá đất đai vùng Tây bắc. Tây Nam Diễn Châu, lập ấp chiêu mộ dân, dựng làng, thuần hoá nhiều giống động vật và cây trồng , Dãi đất từ chân núi Mộ Dạ chày dài đến các làng Nho Lâm, Xuân Sơn đã có những tập đoàn quần cư tương đối đông đúc.
Sang thời kỳ Bắc thuộc bất chấp mọi chính sách và thủ đoạn tàn bạo, thâm độc của kẻ thù, nhân dân Diễn Châu vẫn cố kết với nhau trong tổ chức xóm làng, không ngừng tích luỹ kinh nghiệm, cải tiến kỹ thuật, mở mang đồng ruộng, xóm làng. Đồ sắt đã  dần dấn thay thế đồ đồng, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao năng suất lao động và quá trình thâm canh. Lúa được trồng 2 vụ, ở một số nơi thực hiện việc canh tác luân lưu 3 vụ mạnh gọi là ghép đại điền. Ngoài cây lúa nước họ còn trồng các loại rau màu bổ sung như rau muống, rau cải, ngô, khoai, sắn, đậu lạc; các loại cây công nghiệp như mía, dâu, bông. Nhiều xóm làng được thành lập, dân cư cộng cư ngày một đông đúc, Thời Tây Hán, vùng Hàm Hoan mới có 5000 hộ với 20.000 nhân khẩu, đến thời Đông Hán con số đó lên đến 6.000 hộ với 30.000 nhân khẩu. Sang thời Tuỳ, số hộ ở Hàm Hoan tăng lên 9.916 hộ. Do biến động xã hội, một số dòng họ Đàng Ngoài bắt đầu di cư vào sinh c lập nghiệp ở Diễn Châu.
Đền thời Lý - Trần- Lê công cuộc khai hoang lập ấp được đầy mạnh thêm một bước. Vùng ven biển Diễn châu bắt đầu được khai phá. Vùng trung tâm huyện đã có nhiều tụ điểm dân cư đông đúc. Ngoài sở đồn điện  Diễn châu chạy từ núi Mồng Ga qua Bến Thóc, Yên Sở, Lạc Sở do Nhà nước quân chủ quản lý, một số quan lại quý tộc được phép đứng ra tổ chức lo việc khai hoang lập ấp. Ông Non, thuỷ tổ họ Cao và Đặng Tiến Công khai khẩn vùng đất Nho Lâm (Diễn Thọ, Diễn Lộc, Diễn Phú), Tạ Công Luyện khai khẩn vùng Cầu Đạu (Diễn cát), Trịnh Công Đán vùng Xuân Sơn (Diễn Lợi), Đặng Phúc Lâm đm nhiệm vùng Mai Các (Diễn Thành), Phạm Thập vùng Cao Xá (Diễn Thành, Diễn thịnh, Diễn trung) ba ông tổ họ Bùi, Hoàng, Tăng vùng Diễn Đồng, Diễn Nguyên, Diễn Thái, ông tổ họ Trương khai phá vùng Diễn Kỷ.
Vào cuối đời Lê, Huyện Đông Thành đã lên đến 76 xã, 4 thôn, 29 sách, 1 trang, 2 sở, 3 vạn và 4 quản. Đến thời Nguyễn, hấu hết đất đai Diễn châu được khai phá. Các thôn xã được định hình lên tới 139 đơn vị.
Những kết quả khai khẩn đất đai từ thế hệ này qua thế hệ khác đã biến Diễn Châu trước đây là miền biên cương hẻo lánh "Hưu, hoẵng đầy gò, tiếng kêu vang đồng nội, chim công bay lượn che rợp núi trời" (Lịch Đạo  Nguyên, Thuỷ kinh chú) thành một vùng đất phí nhiêu trù mật., Những cánh đồng mênh mông dập dùi sóng lúa, nhữngc vườn cây trĩu qu, làng mạc xanh rời có luỹ tre bao bọc, những trường học rộn rã tiềng cười, những chợ búa đông nghịt người qua lại là kết qu của biết bao môi hôi, nước mặt của lớp người tiên phong đi khai sn phá thạch. Với đôi tay rắn chắc, với trí tụê và tài năng sáng tạo, nhân dân Diễn châu đã nâng trình độ kỹ thuật của địa phưng ngang tầm c nước.
Trong lĩnh thủ nông nghiệp, từ chổ "thuy canh ho hậu" ông cha ta từng bước biết dùng trâu bò làm sức khéo thay người, phòng đoán thời tiết, lập thời vụ, biết áp dụng các biện pháp thâm canh tăng vụ và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sn xuất lưu lại đời sau. Các công trình thuỷ lợi gắn liền với nghề trồng lúa nước được đặt lên hàng đầu trong 4 biện pháp kỹ thuất  nông nghiệp cổ truyền. Các thôn xã triệt để lợi dụng địa hình đắp đê ngăn mặn. Nhiều ao hồ, đập nước được xây dựng để tạo thêm nguồn nước tưới.
Trong lĩnh vực thủ công nghiệp có nhiều tiến bộ đáng kể. Các nghế thủ công dưới dạng nghề phụ của nông dân phát triển khắp ni vùng ven biển như nghề sn xuất nước mắm, đóng thuyền, đan gai chắp lưới. Từ chỗ chưng cất nước biến lấy muối tiến lên việc xây ô đổt nại. Miền đồng bằng trung du có nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt vi, luyện sắt, đúc đồng. Nhiều mặt hàng mang đi trao đổi. Nhiều người đạt tay nghề cao và đã được mệnh danh là tổ sư các nghề nghiệp.
Cùng với việc xây dựng đời sống nông nghiệp, định cư, nhân dân lao động Diễn chaua cũng đã góp phần sáng tạo nền văn hoá dân tộc độc đáo, phòng phú và đậm đà tính nhân dân. Chính  nhờ đó mà bn lĩnh và sắc thái dân tộc không những được giữ nguyên gốc trước nạn ngoại xâm mà còn tạo lập nên tinh thần lạc quan, yêu đời mặc dầu cuộc sống ni thôn dã còn nghèo khổ, lắm gian truân và còn ít nhiều cay đắng.
Nhân dân Diễn châu hết sức kiên cường chống ngoại xâm và giai cấp thống trị, vưn lên làm chủ cuộc đời. Trên mnh đất kiên cường, bất khuất này, mỗi một hòn núi, khúc sông, đoạn đường, một thôn xóm không những thấm đẫm mồ hôi, nước mắt trong việc chế ngự thiên nhiên mà còn thắm máu trong sự nghiệp bo vệ độc lập của Tổ quốc.
Cùng với c nước, Diễn châu tri qua hàng chục cuộc chiến tranh gii phóng và chiến tranh tự vệ chống đủ các loại quân xâm lược có tiền lực kinh tế và quân sự mạnh hn ta gấp bội lần.
Trong lịch sử đánh giặc của tổ tiên ta, cùng với Nghệ an, Hà Tĩnh, Diễn châu từng được xem là "phên dậu" của nước nhà, là đất "trọng tấn", "thắng địa", "đứng chân" của nhiều đời. Do địa thế núi sông, biển c có phần hiểm trở "Khi thắng có thể đánh ra, khi yếu có thể giữ vững", do tính chất quật khởi "Khi xông pha trận mạc thì dũng cm bất khuất, khi chịu đựng gian khổ thì gan góc lầm lì, khi đi theo việc nghĩa thì son sắt thủy chung" nên Diễn Châu có lúc trở thành trung tâm của các cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm, có lúc trở thành ni gửi gắm mọi niềm tin của bộ phận lãnh đạo trong những giây phút hiểm nghèo nhất trong lịch sử nước nhà...Trên đất Diễn Châu còn lưu lại gần 90 di tích lịch sử làm rạng rỡ truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm.
Năm 208 trước công nguyên, Thục An Dưng Vưng đã có ý định dựa vào địa thế hiểm trở của vùng Diễn Châu làm nên điểm tựa cuối cùng để xây dựng lại c đồ. Không ngờ kẻ địch nham hiểm, "nỏ thần vô ý trao tay giặc" nên An Dưng Vưng phi gieo mình xuống cửa biển Thiện Môn, để lại cho con cháu đời sau một bài học cnh giác với kẻ thù.
Trong các cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên (1258-1288),  nhân dân Diễn châu đã tích cực giúp Tỉnh quốc đại vưng Trần Quốc Khang trấn thủ Diễn châu, phối hợp với Chiêu Văn Vưng Trần Nhật Duật trấn thủ Nghệ An, xây dựng vùng Hoan Diễn thành hậu cứ vững chắc, tạo điều kiện thuận lợi cho Thượng tướng Trần Quang Khi chặn đứng được toàn quân Toa Đô từ Chiêm Thành đánh thọc sâu vào hậu phưng ta hòng mau chóng kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược. Nhiều con em Diễn châu trực tiếp đóng góp phần xưng máu của mình cho nền độc lập mà đến nay sử sách vẫn còn ghi. Tiêu biểu cho thế hệ đó là Hoàng Tá Thốn (Hoàng Đại Liên) quê Diễn vạn và Lê Thanh Hà Anh.
Sống trên mnh đất mà thiên nhiên thuộc loại khắc nghiệt, con người lại nằm trong cnh áp bức của chế độ quân chủ, cho nên cùng với chống ngoại xâm, nhân dân Diễn châu còn phi liên tục chống lại giai cấp thống trị một khi nó đã đi ngược lại nguyện vọng của quần chúng để giành quyền sống.
Theo quy luật chung, lúc chế độ quân chủ bước vào thời kỳ suy vi, giai cấp thống trị mất vai trò lịch sử và trở nên phn động, cn trở bước tiến đi lên của đất nước. Mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ phong kiến và nông dân vốn có sẵn nay lại trở nên gay gắt. Với ý chí quật cường đã được rèn luyện qua lịch sử trường kỳ chống ngoại xâm, nhân dân Diễn châu tất nhiên không để cho giai cấp thống trị dày xéo lên cuộc sống của mình. Sự bất bình oán ghét của nhân dân lao động đã đến lúc chuyển thành lòng căm thù và hành động. Và vì vậy cục diện chiến tranh giai cấp ở Diễn châu diễn ra liên tục, có lúc lên rất cao, nhưng có khi âm ỉ, có lúc thì chuyển thành những cuộc khởi nghĩa vũ trang có quy mô lớn hoặc có khi chỉ là các cuộc đấu tranh nhỏ lẻ ở một làng xã chống lại bọn cường hào.
Do hậu qu những cuộc hành quân chinh phạt và chính sách bạo nước của Lê Long Đỉnh (Lê Ngoạ Triều) - vị vua cuối cùng của nhà Tiền Lê, gây nên sự chống đối mạnh mẽ trong dân chúng khắp các địa phưng. Năm 1012, nhân dân Diễn châu nổi dậy chống lại mệnh lệnh của triều đình, nhà Lý buộc phi đem quân vào trấn áp. Nhằm xoa dịu lòng dân và nắm chắc địa bàn xung yếu này, nhà Lý đã cử các hoàng thân quốc thích trực tiếp thị trấn Diễn Châu. Từ nửa sau thế kỷ XII, nhà Lý ngày càng có nhiều biểu hiện sa sút, chính quyền nhà nước ri vào tay bọn mọt dân hại nước. Mùa màng thất bát, đói kém liên tiếp xy ra, thuế má lao dịch thì nặng nề, đời sống nhân dân c cực. Chính điều này làm xuất hiện nhiều cuộc nỏi dậy của nông dân. Nắm1193, Ngô Công Lý người làng Cao Xá chiêu tập dân lưu vong nổi dậy phối hợp với Đinh Kh, Bùi Độ tự xưng là con cháu Đinh Tiền Hoàng chống lại triều đình. Hoà nhịp cùng với phong trào chung c nước, các cuộc khởi nghĩa nông dân ở Diễn châu đã góp phần làm nền cho sự tranh chấp của các thế lực phong kiến, dẫn đến triều Lý suy vong, vưng triều Trần thành lập.
Trong cuộc kháng chiến chống quân minh đầu thế kỷ XV, vị trí và vai trò chiến lược của vùng Hoan Diễn càng nổi bật, Hồ Quý Ly từng phái nhiều tướng lĩnh tín cẩn vào xem xét vùng đất Tây Bắc Diễn Châu, xây dựng thành Trài rào chắn Lạch vạn làm hậu cứ chống giặc lâu dài.
Mùa thu năm 1407, nền đô hộ của nhà Minh vừa thiết lập, nhân dân Diễn Châu nổi dậy đốt phá ngục, giết bọn huyện quan, mở màn cho phong trào chống Minh rộng lớn của nhân dân ta. Khi Trần Ngỗi và Trần Quý KHoáng nổi dậy chống quân Minh, nhân dân Diễn châu đã tích cực giúp nghĩa quân giết tên tay sai trấn thủ Trần Thúc Giao.
Trong khong thời gian từ 1419 đến nắm 1424, Vũ Cống và Hoàng Như Diên lại chiêu mộ nghĩa quân đánh phá thủ đường. Nhà Minh phi ra lệnh cho Trưng Phụ và Trần Hữu mang đại binh vào đàn áp.
Nguyễn Vinh Lộc cùng 19 bạn chiến đấu của mình lợi dụng thời c vừa khẩn hoang lập làng vừa xây dựng lực lượng chống giặc. Thôn Trang Niên (Mỹ Thành) tồn tại như một làng chiến đấu. Nghĩa quân không những đánh tr có hiệu lực các cuộc hành quân cu giặc mà còn tiến vào đánh các hang ổ của chúng, lấy của ci đem về chia cho nhân dân.
 Tháng 10 năm 1421, theo kế hoạch của tướng quân Nguyễn Chích, nghĩa quân Lam Sn tiến vào Nghệ An là ni "hiểm yếu đất rộng người đông" làm chỗ "đứng chân". Nhân dân Diễn châu lại nhất tề nổi dậy tham gia cuộc khởi nghĩa. Ngoài việc cung cấp tin tức, tiếp tế lưng thực. Tháng 6 - 1425 lực lượng dân binh Diễn Châu đã phối hợp với toán quân Lượng Đinh Lễ từ núi Đông Đình tiến về gii phóng thành Diễn Châu, 300 thuyền lưng do Trưng Hưng chỉ huy từ Biển Đông tiến vào Cửa Vạn vượt sông Bùng chi viện cho lực lượng trong thành Trài bị tiêu diệt gọn. Sự kiện này ghi thêm một chiến công rực rỡ trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân Diễn châu. Nhiều con em đã trưởng thành trong chiến trận, Cao Nhân Tới (Diễn Hoa) được phong tước Quận Công, 4 anh em Nguyễn Thế Bông, Nguyễn Thế Bình, Nguyễn Thế Tài, Nguyễn Trung Lao được cử giữ chức Đoàn luyện đô ti sứ; những đóng góp của làng Cẩm Bào, Long An (Diễn Trường) được lịnh sử ghi nhận, góp phần vào thắng lợi chung trong sự nghiệp kháng chiến chống quân Minh.
Năm kỷ Mão (1975), nhân dân Diễn Châu lâm vào một trận đói lớn. Bọn địa chủ cường hào lại nhân dịp này làm giày, ức hiếp dân lành. Hàng nghìn nông dân Diễn Châu tham gia cuộc khởi nghĩa của Lê Hy, Lê Minh Triệt, Trịnh Hưng. Được sự ủng hộ tích cực của nhân dân, cánh quân của Lê Hy từ Diễn châu tiến ra đánh huyện Lôi Dưng (Thanh Hoá), qua lại trấn giữ châu huyện. Không thể dập tắt được các cuộc nổi dậy, nhà vua một mặt phi lo chẩn cấp cho dân nghèo, mặt káhc phi huỷ bỏ tất c các toán lính đi tuần, tìm nhiều cách chiêu an phủ dụ nhân dân trở về nghiệp cụ.
Đến cuối thể kỷ XVIII-XIX mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phát triển đến mức độ gay gắt chưa từng thấy. Khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp ni, phát triển thành chiến tranh nông dân mở rộng lớn chưa từng có trong lịch sử nước ta. Đất Diễn châu lại trở thành chỗ dựa vững chắc cho các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài. Đầu năm 1740, Nguyên Diên - Bộ tướng của Nguyễn Tuyển trở về nhen nhómg được một số trung tâm đề kháng ở vùng Nho Lâm, Xuân Sn, Trung Phường, Hậu Luật, Hà Cát, rồi cho người ra bắt liên lạc với Hữu Cầu đang vẫy vùng ngang dọc suốt một di từ Đồ Sn (Hi Phòng) đến Hà Nam, Ninh Bình. Năm 1750, Nguyễn Hữu Cầu cho quân đổ bộ vào Cửa Hiền (giáp ranh giới Diễn châu - Nghi Lộc) theo dọc kênh Sắt kéo về Nho Lâm đưng đầu với quân của Bùi Thế Đạt. Dưới lá cờ "Đông đạo tồng quốc bo dân đại tướng quân", nông dân Diễn Châu nô nức tham gia. Lực lượng nghĩa quân lại phát triển lên hàng chục nghìn người. Khắp vùng Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu ở đâu cũng có dấu vết chiến tích của nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu.
Âm vang cuộc khởi nghĩa Quận He chưa dập tắt thì năm 1778, nhân dân Diễn châu lại nổi dậy chống bọn quan lại địa phưng. Sau khi làm chủ được một phần Diễn châu, nghĩa quân thừa thắng tiến quân ra uy hiếp phủ Tĩnh Gia, trấn phủ Thanh Hoá. Ngô Đình Hoàng đề nghị với trấn thủ Nghệ An là Hoàng Đình Bo cùng phối hợp trấn áp. Chúng vừa dùng mẹo bắt cóc thủ lĩnh nghĩa quân vừa đề nghị lên Trịnh Sâm lấy thóc công tích hạ giá bán chịu cho dân nghèo đến mùa lúa chín mới thu.
Cuối thế kỷ XVIII, cùng với c tỉnh, nhân dân Diễn Châu lại vùng lên mạnh mẽ trong phong trào Tây Sn do vị anh hùng áo vi Nguyễn Huệ lãnh đạo. Nhân dân các xã tiên Lý (Diễn ngọc) Lý Trai (Diễn Kỷ) tích cực giúp nghĩa quân quét sạch lực lượng chống đối của một bộ phận "Ngu trung" do Nguyễn Như tiến cầm đầu tại Cầu Tiên Lý. Trong lần thứ ba tiến quân ra gii phóng kinh thành Thăng Long ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu (1789). Diễn Châu đã xuất tiền mỗi tháng nuôi từ 3-5 nggìn nghĩa quân. Sau khi quét sạch quân thù khỏi bờ cõi, nhân dân huyện nhà lại ra sức xây dựng Tiên Lý thành tiên đồn bo vệ phía Bắc Nghệ an.
Sang đầu thế kỷ XIX dựa vào thế lực của nước ngoài, Nguyễn ánh thiết lập được nền thống trị phn động nên phạm vi toàn quốc. Ngay từ đầu triều Nguyễn, phong trào đấu tranh đòi quyền sống ngày càng lan rộng từ Bắc Chí Nam, từ miền xuôi đến miền ngược. Nghệ an trở thành một trong những trung tâm của phong trào. Năm 1807, trấn Nghệ An đã có những cuộc bạo động khắp các phủ huyện. Trần thần chia binh đi đánh dẹp mãi không được. Diễn châu, Anh Sn lại nằm ở vị trí hiểm yếu, có nhiều rừng rậm, là địa bàn hoạt động của nhiều nhóm nghĩa quân, do đó Gia Long phi điều quân các ni về chi viện.
Năm 1811, Nguyễn Xuân tự xưng là Hồ Uy Đô thống lấy Diễn Châu làm căn cứ nổi dậy. Nghĩa quân làm chủ được một vùng Bắc và tây Bắc Nghệ An. Tri Phủ Diễn Chân đem quân đi tuần bị nghĩa quân chặn đánh giết chết.
Năm 1816, nhân dân Diễn Châu nổi dậy đốt phá phủ lỵ, trấn thủ Nghệ An Hoàng Viết Ton vất v lắm mới giữ được phong trào không lan rộng ra các phủ huyện khác. Năm 1819, Nhân dân Diễn Châu lại nổi dậy, Phủ Lỵ nhiều lần bị nghĩa quân uy hiếp. Bọn quan lại địa phưng bất lực. Tôn Thất Bình  Phó Đô thống chế hậu dinh quân thần sách được lệnh mang quân về  đóng tại bn Tiên Lý cầm cự với nghĩa quân. Hn 1 tháng không dẹp nổi, Gia long buộc phi triệu hồi Tôn Thất Bình và Hoàng Viết Ton về kinh, đưa Đô thống chế hậu dinh quân thần sách Nguyễn Văn Năng làm trấn thủ, sai Lê Chắt huy động hn 3.000 quân thần sách cũng cố lại Tiên Lý và chốt quân ở một số ni hiểm yếu.
ở Diễn Châu có tới hn 50 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, góp phần cùng các địa phưng làm suy yếu nền thống trị của triều đình nhà Nguyễn. Khởi nghĩa nông dân và chiến tranh nông dân làm cho nhân dân Diễn châu sớm nhận thức được tính chất không khoan nhượng giữa trật tự phong kiến với lợi ích dân tộc.
Nửa sau thế kỷ XIX, nước ta ri vào thm hoạ nô dịch của chủ nghĩa tư bn phưng Tây. Suốt 117 năm (1858 - 1975) cùng với c nước, nhân dân Diễn Châu lại phi đứng trên tư thế chống ngoại xâm liên tục. Nhiều cuộc vận động yêu nước nổ ra. Lớp trước ngã, lớp sau kế tiếp xông lên nêu cao tinh thần "Không có gì quý hn độc lập tự do". Đến khi Đng cộng sn Việt Nam ra đời, nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng, lịch sử dân tộc chuyển sang giai đoạn mới. Đấy là thời kỳ mà ý chí quật cường, bất khuất của nhân dân huyện nhà được phát huy cao độ.
Với đặc điểm địa lý sẵn có đã tạo cho Diễn Châu nhiều kh năng phát triển một nền kinh tế đa dạng, tổng hợp, có nhiều mặt hàng giá trị. Hôm nay cũng như mai sau, Diễn châu sẽ tiến dần ra biển, khai thác tiềm năng đại dưng, phát triển du lịch - dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình giao dịch với nước ngoài và các tỉnh thành trong nước.
Diên Châu có tầm quan trọng về mặt chiến lược quân sự, là trung tâm của sự giao lưu và tiếp xúc văn hoá, là đầu mối của nhiều trục đường giao thông trong và ngoài nước. Các thế hệ nhân dân ni đây có quyền tự hào về truyền thống trọng đạo lý, hiếu học, truyền thống chống ngoại xâm. Không chỉ có thế, Diễn Châu còn sớm được biết đến là vùng đất có nhiều làng nghề thủ công truyền thống như làng nghề làm võng ở Hoàng La, Phú Hậu, rèn ở Nho Lâm, nấu đồng Cồn Cát....
Tri qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, người dân Diễn Châu với nổ lực phi thường đã rèn luyện, hun đúc cho mình những truyền thống đáng qúy, đó là sự dũng cm kiên cường, đoàn kết, trọng đạo đức, quý nhân nghĩa, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa cử, đó là những phẩm chất cần cù, chăm học, gin dị, tiết kiệm, chịu thưng chịu khó.
Ngày nay, Đng bộ và nhân dân Diễn Châu đã và đang tích cực phát huy cao độ thế mạnh của truyền thống của quê hưng, góp phần cũng cố, xây dựng và bo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, luôn luôn hướng tới tưng lai, vững bước đi lên trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

2-Diễn ngọc:
Diễn Ngọc ở kề thị trấn Diễn Châu, trong vòng cung hữu ngạn sông Bùng. Bắc là Diễn Kỷ, Tây là Diễn Hoa, Nam, Đông là Diễn Bích, phía Nam là thị trấn Phủ Diễn và Diễn Thành ngăn cách bởi hồ Đập Tràn. Diễn Ngọc bốn bề là sông nước.Đường Quốc lộ 1A chạy theo một đoạn hữu ngạn sông Bùng, vượt qua cầu Bùng là sang đất Diễn Kỷ.
Xã Diễn Ngọc bao gồm 3 thôn là: Lý Nhân,Phú Lộc, Hữu Bằng và một phần thôn Yên Lãng. Quá trình hình thành xã Diễn Ngọc như sau:
Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân các thôn nói trên đã đứng dậy giành chính quyền ở thôn mình. Đến năm 1946, ba thôn Lý Nhân, Phú Lộc, Hữu Bằng thuộc xã Tiên Lý cũ đã hợp nhất thành một xã gọi là xã Diễn Ngọc.
Năm 1948, xã lấy tên là Đông Hải và đến năm 1950, xã Đông Hải và đến năm 1950, xã Đông Hải lại hợp nhất với các thôn Thanh Bích, Trang Trung thành một xã lớn là xã Hải Châu.
Năm 1954, xã hải Châu chia nhỏ thành 3 xã Diễn Bích, Diễn Ngọc và Diễn Thuỷ.
Đến năm 1969, xã Diễn Ngọc và xã Diễn Thuỷ hợp nhất lại cộng thêm một phần thôn Yên Lang của xã Diễn Thành ở phía Bắc hồ Đập tràn và lấy tên là Diễn Ngọc như ngày nay.
Như vậy xã Diễn Ngọc được khai sinh từ năm 1946 và sau đó được tái inh lại năm 1969.
Diễn Ngọc là vùng cư dân có tương đối sớm, từ khi Lý Nhật Quang làm Tri Châu Nghệ An chiêu lập ấp.
Xã Diễn Ngọc (huyện Diễn Châu, Nghệ An) là xã nằm trong vòng cung hữu ngạn sông Bùng, trước đây cuộc sống người dân còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên bằng những nỗ lực, năng động trong cách làm ăn, vùng quê biển đang vươn mình trỗi dậy đổi thay từng ngày.
Khó khăn của Diễn Ngọc là vùng đất nông nghiệp thường hay bị nhiễm mặn, các loại cây trồng cho năng suất thấp, nghề làm muối cũng chẳng đủ nuôi nổi những con người siêng năng cần mẫn. Làm sao để thoát nghèo là mối trăn trở của cấp ủy, chính quyền xã. Trước tiên là ổn định phát triển nông nghiệp, tập trung cải tạo chất đất để canh tác các loại cây trồng, hoa màu, đưa năng suất bình quân lúa đạt 57 tấn/ha/vụ. Cùng với trồng trọt là ổn định chăn nuôi, chủ yếu là phát triển đàn lợn gần 1.700 con, đàn gia cầm 8.700 con.
 
Phát huy lợi thế xã vùng biển, Diễn Ngọc còn tập trung khai thác nghề đánh bắt chế biến thủy hải sản. Đến thời điểm này, toàn xã có 366 phương tiện, trong đó có 24 tàu thuyền đánh bắt cá xa bờ, tổng công suất khai thác 21.840 CV. Xã duy trì được 4 cơ sở đóng tàu thuyền tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động. Sản lượng đánh bắt cá hàng năm đạt hơn 12.000 tấn, trong đó tôm đạt 122 tấn, ghẹ, ốc 245 tấn, cá xuất khẩu 1.837 tấn, cá chợ các loại hơn 5000 tấn, cá tạp 3.675 tấn. Giá trị thu nhập từ nghề cá đạt 159 tỷ đồng.
 
Không chỉ khai thác, Diễn Ngọc còn quy hoạch xây dựng được làng nghề chế biến thuỷ hải sản Ngọc Văn diện tích 2,76 ha thu hút được 75 hộ dân tham gia, hàng năm chế biến được trên 2 triệu lít nước mắm. Từ khi thành lập, làng nghề này đã giảm thiểu được ô nhiễm môi trường, quản lý tốt hơn trong việc an toàn vệ sinh thực phẩm.
 
Tuy là xã vùng biển nhưng Diễn Ngọc có hơn 1km quốc lộ 1A đi qua, xã đã khai thác được tiềm năng này phát triển mạnh về dịch vụ thương mại như kinh doanh lĩnh vực xăng dầu, máy móc phục vụ nông nghiệp. Ngoài ra còn có hàng trăm dịch vụ khác như nghề mộc, hàn, xay xát thu mua lương thực. Toàn xã hiện có gần 30 doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động kinh doanh hiệu quả. Riêng lĩnh vực này trong năm vừa qua Diễn Ngọc đạt trên 72 tỷ đồng.
 
Kinh tế phát triển, nguồn thu ổn định, Diễn Ngọc chú trọng công tác đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng mới được trụ sở UBND, thi công kè Lạch Vạn...  Trong những năm tới xã tiếp tục thu hút đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là mở rộng, nâng cấp trục chính giao thông,  phát triển nghề đánh bắt hải sản, tập trung về công tác môi trường ở khu chế biến thuỷ hải sản.
                                                                                                            Sưu tầm: NGUYỄN DUY TOÀN

dự thảo QUY CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI


BẢN D Ự TH ẢO
Ng ười soạn: Nguyễn Duy Toàn: 0903900292
Mail: vnndtoan@yahoo.com.vn



QUY CH Ế
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG HƯƠNG DIỄN NGỌC TẠI TP HCM


ĐẶT VẤN ĐỀ

 o   Hội đồng hương Diễn Ngoc là nơi tập hợp đồng hương hiện đang cư trú, làm việc tại TP Hồ Chí  Minh các tỉnh thành lân cận không phân biệt giới tính, thành phần kinh tế, dân tộc và quá khứ… Mục đích nhằm giúp đỡ, chia sẻ các vấn đề trong cuộc sống; công tác, lao động và học tập.
 o  Tổ chức Hội đồng hương là cầu nối liên hệ, giao lưu, giúp đỡ giữa tất cả cấp đồng huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An tại TP Hồ Chí  Minh các tỉnh thành lân cận.
o   Hội tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, tuân thủ theo các quy định của Hội và đảm bảo không làm trái pháp luật và các quy định của Nhà nước; không đi ngược lại truyền thống quê hương.  

 CHƯƠNG I: TÊN GỌI, MỤC ĐÍCH ‎VIỆC THÀNH LẬP HỘI.
 Điều 1: Tên gọi
1. Tên chính thức: HỘI ĐỒNG HƯƠNG DIễN NGOC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2. E-mail:  dienngoc.hcm@gmail.com
3. Website: http://dienngochcm.blogspot.com
 Điều 2: Mục đích – Tiêu chí hoạt động
1. Nhằm nối kết những người cùng quê hương, con, cháu, dâu, rể của xã Diễn Ngọc đang sinh sống tại TP Hồ Chí  Minh các tỉnh thành lân cận.
2.  Tạo lập và duy trì tình đoàn kết, mối quan hệ gắn bó lâu dài và thắt chặt tình yêu quê hương, đất nước.
3. Trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống, trong học tập và tìm kiếm việc làm. Tổ chức việc hiếu - hỷ, thăm hỏi khi ốm đau, gặp rủi ro.
4. Tổ chức và hưởng ứng các phong trào hoạt động xã hội mang ý nghĩa thiết thực. Tạo mối liên hệ, giao lưu, học hỏi giữa đồng hương Diễn Ngoc với các tổ chức, đoàn thể khác.
5. Góp phần duy trì và phát huy truyền thống hiếu học, vượt khó, ý thức phấn đấu vươn lên, làm giàu cho bản thân, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.

CHƯƠNG II: HỘI VIÊN 
Điều 3: Điều kiện Hội viên.
1. Người có quê quán, sinh quán tại xã Diễn Ngọc, Diễn Châu, Nghệ An; Người là con, cháu, dâu, rể xã Diễn Ngọc, Diễn Châu, Nghệ An hiện đang cư trú, làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành lân cận.
2.Tán thành và tuân thủ quy định của Hội, tự nguyện gia nhập Hội.
3.Tích cực tham gia sinh hoạt và hưởng ứng các chương trình hoạt động của Hội.
4.Đóng hội phí đầy đủ, đều đặn.
5.Những tổ chức, cá nhân (là người quê  hương hoặc không phải là người quê hương) có công đóng góp, xây dựng Hội được xét kết nạp làm Hội viên danh dự.  
Điều 4: Tư cách Hội viên
1.Hội viên: Là người thoả mãn Điều 3 của quy định của Hội này.
2.Thành viên Ban chấp hành Hội: Là Hội viên chính thức, có nhiệt tình, uy tín và năng lực; được bầu ra từ Hội nghị toàn thể của Hội. 
 Điều 5: Quyền lợi – Nghĩa vụ Hội viên.
1.  Quyền lợi.
- Được sinh hoạt, tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến và biểu quyết mọi công việc của Hội theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Được quyền đề cử, ứng cử vào Ban chấp hành Hội.
- Được tham gia các chương trình hoạt động do Hội tổ chức hoặc phối hợp tổ chức.
-  Được bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trong hoạt động của Hội.
-  Được khen thưởng về những kết quả hoạt động đóng góp chung cho Hội.
2.  Nghĩa vụ.
-  Tôn trọng và thực hiện đầy đủ các qui định của Hội.
-  Tuyên truyền, mở rộng ảnh hưởng, uy tín của Hội, vận động các cá nhân, tổ chức khác tham gia hưởng ứng các hoạt động của Hội.
-   Củng cố khối đoàn kết nội bộ, tham gia và hỗ trợ nhau trong mọi hoạt động của Hội. Tích cực tham gia các hoạt động xây dựng quỹ Hội. Đóng quỹ Hội đầy đủ và đúng hạn.
-   Bảo vệ uy tín của Hội và của Hội viên, không được nhân danh Hội trong các quan hệ giao dịch, trừ khi được Ban chấp hành Hội phân công.
-  Góp ý xây dựng Hội góp phần phát triển Hội. 

CHƯƠNG III: NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH HỘI 
Điều 6: Nguyên tắc tổ chức
1.  Tự nguyện.
2.  Tự quản.
3.  Hiệp thương dân chủ.
4.  Phối hợp và thống nhất hành động.  
Điều 7: Hội nghị toàn thể và thời gian sinh hoạt định kỳ
1. Hội nghị toàn thể là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội. Hội nghị toàn thể họp một năm một lần và có thể họp bất thường khi có yêu cầu. Hội nghị toàn thể có nhiệm vụ và quyền hạn:
-    Thông qua báo cáo của Hội nhiệm kỳ qua.
-    Thảo luận và biểu quyết phương hướng nhiệm vụ của Hội nhiệm kỳ tới.
-    Bầu bổ sung thành viên hoặc Ban chấp hành mới của Hội (khi cần thiết).
-    Sửa đổi hoặc bổ sung các quy định của Hội.
2.  Trường hợp đặc biệt, Ban chấp hành có quyền đề nghị triệu tập Hội nghị BCH và sẽ có thẩm quyền như Hội nghị toàn thể Hội viên. Các quyết định trong Hội nghị toàn thể phải có sự đồng ý của hơn 1/2 số đại biểu có mặt. Trường hợp sửa đổi các quy định của Hội phải có sự đồng ý của 2/3 tổng số đại biểu có mặt.  
Điều 8: Cơ cấu tổ chức
1. Ban chấp hành.
-  Ban chấp hành do Hội nghị toàn thể bầu ra.
-  Ban chấp hành điều hành mọi hoạt động của Hội giữa 2 kỳ Hội nghị toàn thể, Số lượng Ban chấp hành do hội nghị quyết định.
-  Ban chấp hành họp 6 tháng 1 lần và có thể họp bất thường khi có yêu cầu. Sau phiên họp, Ban chấp hành có nhiệm vụ thông báo đến Hội viên kết quả phiên họp.
-  Nhiệm kỳ Ban chấp hành là 2 năm. Một năm 01 lần xem xét lại tư cách thành viên Ban chấp hành, thực hiện bãi miễn, bổ sung thành viên mới để phù hợp với tình hình Hội.
-  Ban chấp hành bao gồm:
• Chủ tịch Hội • Phó Chủ tịch Hội • Ủy viên phụ trách tổ chức • Ủy  viên phụ trách tài chính  • Ủy viên phụ trách thư ký Hội.
2.  Chi hội cơ sở.
 -   Hình thức cơ sở của Hội theo khu vực (từng vùng).
-   Tuỳ theo từng khu vực có từ 10 thành viên trở lên thành lập một Chi hội. Chi hội là tổ chức cơ sở của Hội.
-   Mỗi Chi hội có 1 Chi hội trưởng và 01 Chi hội phó. 3. Ban Cố vấn.
-   Một số đồng hương đứng tuổi có nhiều kinh nghiệm và uy tín, được tập thể Hội giới thiệu và 100% thành viên Ban chấp hành nhất trí mời tham gia Ban cố vấn.
-   Ban cố vấn làm nhiệm vụ tham gia tư vấn, giúp cho Ban Chấp hành những ý kiến cần thiết trong việc xây dựng, phát triển Hội và tổ chức điều hành các hoạt động của Hội.
1. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban chấp hành.
-   Tổ chức thực hiện các quyết định đã được Hội nghị toàn thể của Hội thông qua.
-   Bầu Chủ tịch Hội, bầu bổ sung Ban chấp hành Hội.
-   Xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình hoạt động của Ban chấp hành hàng năm và cả nhiệm kỳ.
-   Soạn thảo báo cáo tổng kết, dự toán và quyết toán tài chính hàng năm, xây dựng phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp hàng quý, năm.
-   Chuẩn bị văn kiện Hội nghị toàn thể, triệu tập Hội nghị toàn thể nhiệm kỳ và bất thường.
-   Xét khen thưởng hội viên có thành tích trong việc tham gia vào các hoạt động của Hội và xây dựng, đóng góp ý kiến vào sự phát triển của Hội.
-   Xây dựng và duy trì Website của Hội để tạo mối liên hệ, trao đổi và giao lưu giữa các thành viên.
-  Phổ biến hoạt động của Hội, thông tin tình hình kinh tế - xã hội của quê hương.  

CHƯƠNG IV: TÀI CHÍNH CỦA HỘI 
Điều 9: Các khoản thu
1. Phí hội viên gồm phí gia nhập hội viên và phí xây dựng quỹ hội. Mức phí hội viên và việc thu phí hội viên do Ban chấp hành quyết định. (Có văn bản cụ thể riêng).
2. Các khoản đóng góp do bà con đồng hương, các doanh nhân, các nhà tài trợ, các tổ chức ủng hộ.
3. Các khoản thu khác: Ủng hộ quỹ khuyến học…. (nếu có).  
Điều 10: Các khoản chi
1. Chi phí tổ chức các buổi sinh hoạt, hội nghị, các hoạt động khác cho Hội:
a) Vận động các nhà tài trợ để chi cho buổi tổ chức sinh hoạt và liên hoan.
b) Phần còn thiếu sẽ trích quỹ của Hội.
2. Chi phí thăm hỏi ốm đau, bệnh hiểm nghèo và việc hiếu đối với thành viên, vợ, con thành viên của Hội, thân nhân (tứ thân phụ mẫu) của thành viên:
- Thăm hỏi bệnh hiểm nghèo: Mức 500.000 đ/1 người
- Việc hiếu: Mức 1.000.000 đồng (Gồm: Vòng hoa hoặc Liễn và tiền)
3. Hội sẽ cấp học bổng nhằm động viên khuyến khích học sinh, sinh viên là con em của các thành viên Hội, của quê hương xã Diễn Ngoc gặp khó khăn, học giỏi:
a- Học sinh cấp trung học cơ sở trở xuống:
- Học sinh giỏi cấp quốc gia, mức: 2.000.000 đ/ 1 cháu
- Học sinh giỏi cấp tỉnh, thành phố, mức: 1.000.000 đ/ 1 cháu
- Học sinh giỏi cấp quận, huyện, mức: 500.000 đ/cháu
b- Học sinh cấp trung học phổ thông:
- Học sinh giỏi cấp quốc gia, mức: 3.000.000 đ/ 1 cháu
- Học sinh giỏi cấp tỉnh, thành phố, mức: 2.000.000 đ/ 1 cháu
- Học sinh giỏi cấp quận, huyện, mức: 1.000.000 đ/cháu
c- Sinh viên:
* Đại học:
- Đậu đại học đạt điểm nguyện vọng 1, mức: 1.500.000 đ/ 1 cháu
- Đậu đại học nguyện vọng 2 trở đi, mức: 500.000 đ/ 1 cháu
* Cao đẳng:
- Đậu cao đẳng đạt điểm nguyện vọng 1, mức: 500.000 đ/ 1 cháu
- Đậu cao đẳng nguyện vọng 2 trở đi và xét tuyển, mức: 300.000 đ/ 1 cháu
d- Sinh viên nghèo hiếu học:
- Hàng năm căn cứ vào sự giới thiệu của các hội viên cho Ban chấp hành hội để trao phần thưởng hỗ trợ những con em quê hương xã Diễn Ngọc đang học tập tại TP Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận là con nhà nghèo mà có tinh thần ham học, kết quả đạt điểm trung bình khá trở lên (có xác nhận của Trường), mức tài trợ học bổng 2.500.000 đ/1 năm.
CÁC QUY ĐỊNH KÈM THEO ĐIỀU 10:
+ Hội viên có trách nhiệm thông tin đầy đủ các nội dung liên quan nêu tại điều 10 của quy chế này.
+ Những đối tượng nằm trong điều 10 quy chế này phải kèm theo giấy tờ chứng minh liên quan như: Phiếu báo điểm đật đại học, cao đẳng, giấy chứng nhận học sinh giỏi các cấp (bản phô tô).
+ Ng ày tổ chức họp Hội đồng hương là ngày phát phần thưởng cho các cháu. nếu các hội viên không tham gia dự họp thì không trao thưởng cho con hội viên đó.
4. Tham gia hoạt động từ thiện, cứu trợ cho quê hương Diễn Ngoc nói riêng, cho huyện nói chung khi có thiên tai lũ lụt. (căn cứ vào tình hình thực tế và kinh phí của hội. Ban Chấp hành Hội sẽ họp và thống nhất).


Điều 11: Quản lý, sử dụng tài chính và thông tin
1.  Tài chính của Hội được Ban chấp hành phân công cho UVBCH phụ trách công tác Tài chính – kiêm thư ký giữ. Được sử dụng khi có sự nhất trí của Ban chấp hành.
2.  Tài chính của Hội khi nhàn rỗi được gửi ngân hàng (hoặc hộ gia đình là hội viên) có thể cho vay để phát triển, tăng nguồn thu của Hội. Trước mắt, mức lãi vay bằng lãi suất tiền gửi ngân hàng tại thời điểm vay.
3. Các thông tin liên quan đến tình hình tài chính của Hội được công khai tại các kỳ đại hội, sẽ được công khai trên website của Hội. Trường hợp không sử dụng được Website thì 1 năm/lần các thông tin trên sẽ được gửi đến các Hội viên để có thể nắm được tình hình về Các khoản thu đóng góp từ các hội viên; các khoản chi vào các công việc cụ thể và tình hình quỹ của Hội đến thời điểm báo cáo.  
4. Các hội viên có trách nhiệm cung cấp thông tin cho BHC Hội  hoặc Chi hội  trưởng  từng  khu vực khi có  người ốm đau, việc hiếu, hoặc những công việc liên quan khác.
5. Những thành viên là những người lớn tuổi từ 65 trở  lên thì  không bắt buộc phải  đóng  góp hội  phí, mà tuỳ theo khả năng của từng người.

CHƯƠNG V: NHỮNG QUY ĐỊNH KHÁC 
Điều 12: Một số biểu hiện được xem là thiếu tôn trọng quy định Hội đồng hương
1. Đối với thành viên Ban chấp hành:
-  Không có sự nhiệt tình, tích cực tham gia điều hành Hội.
-  Không hoàn thành nhiệm vụ được giao.
-  Quyết định tùy tiện công việc của Hội mà không bàn bạc và được sự nhất trí của Ban chấp hành Hội.
2. Đối với Hội viên:
-  Không chấp hành các quy định của Hội.
-  Có biểu hiện đi ngược lại lợi ích, làm tổn hại đến Hội. 
 Điều 13: Các hình thức động viên và chấn chỉnh hoạt động của Hội
1. Căn cứ vào đóng góp của từng thành viên, Ban chấp hành đề xuất hình thức khen thưởng động viên kịp thời và phù hợp theo qui định của Hội.
2. Việc chấn chỉnh các thành viên: Khi có các biểu hiện ảnh hưởng uy tín và hoạt động của Hội sẽ có các hình thức chấn chỉnh như sau:
-   Nhắc nhở trước Ban chấp hành (nếu là hội viên thuộc Ban chấp hành Hội);
-   Nhắc nhở trước toàn thể Hội viên. 
Điều 14: Thi hành quy định của Hội đồng hương
1.  Tất cả Hội viên phải thực hiện nghiêm túc các quy định này.
2.  Ban Chấp hành có trách nhiệm hướng dẫn thi hành quy định này.
3.  Bản điều lệ này có 5 (năm) chương và 14 (mười bốn) điều, đã được hội nghị toàn thể Hội đồng hương Diễn Ngoc tại TP Hồ Chí Minh thông qua ngày  … tháng … năm 2…..
4. Việc sửa đổi, bổ sung phải có sự thống nhất của ít nhất 75% thành viên Ban chấp hành.